Giảm cân, đẹp da nhờ bí đao

Bí đao - quả ngon, thuốc quý

Thành phần chủ yếu của bí đao là nước, nhiều chất xơ, không chứa lipid. Cứ 100g bí đao có 0,4g protid, 2,4g glucid, 19mg canxi, 12mg phosphor, 0,3mg sắt, nhiều loại vitamin (A, B1, B2, B3, B9, C, E... và khoáng chất như kali, phosphor, magie...). Do hàm lượng dinh dưỡng thấp, cung cấp ít năng lượng, giàu chất xơ và yếu tố vi lượng, nên bí đao trở thành loại thực phẩm giúp bạn có làn da sáng mịn mà lại giảm cân vô cùng hiệu quả. Nếu tích cực ăn bí đao hàng ngày theo thực đơn giảm cân cùng với chế độ luyện tập tích cực, bạn có thể giảm tới 3kg trong vòng 1 tháng mà da vẫn tươi nhuận.

bi-dao-dep-da-giam-can

Cách giảm cân và đẹp da với bí đao

Với cách giảm cân bằng bí đao, bạn vẫn có thể ăn sáng và ăn trưa như bình thường với những món ăn yêu thích. Tuy nhiên, lý tưởng nhất vẫn là việc lựa chọn thực đơn cân bằng, giàu rau xanh và trái cây để tăng cường vitamin và chất xơ, giúp tăng cường trao đổi chất và đốt cháy năng lượng dư thừa. Riêng với bữa chiều, trước 7 giờ tối, bạn sẽ sử dụng bí đao hoàn toàn thay cơm. Bạn có thể ăn bí đao luộc, bí đao hấp cùng uống nước luộc bí đao hay có thể chế biến một số món khác từ bí để thay đổi khẩu vị như món canh bí đao nấu gừng: nấu cả vỏ và hạt bí đao cùng một chút gừng tươi, trần bì, gia vị vừa ăn hoặc bí đao nấu canh tôm, bí đao xào tỏi (với thật ít dầu). Ban đầu, khi chưa quen, bạn có thể ăn bí đao như một món chính trong bữa cùng cơm, canh... Sau đó, khi đã quen, bạn hãy dần dần ăn bí đao thay cơm hoàn toàn để việc giảm cân thực sự hiệu quả. Nước ép bí đao cũng là nguyên liệu làm đẹp da và giảm mỡ bụng một cách tự nhiên. Bí đao gọt vỏ, bỏ ruột, rửa thật sạch rồi thái miếng, cho vào máy ép lấy nước. Hòa thêm chút muối và đường rồi khuấy đều, có thể bảo quản trong tủ lạnh, chia ra uống vài lần trong ngày như nước giải khát để vừa có làn da trắng mịn màng lại vẫn có thể giảm cân hiệu quả.

Lưu ý: Ăn bí đao tuy được coi là thực phẩm lành mạnh nhưng nên xen kẽ việc ăn bí đao với các loại rau củ khác để đảm bảo dinh dưỡng và sức khỏe. Một tuần bạn chỉ cần ăn 3 - 4 bữa bí đao thay cơm vào buổi tối là đủ. Mỗi lần ăn như vậy, bạn chỉ nên ăn tối đa 500g bí đao luộc và 1 lít nước luộc. Nếu vẫn còn đói, bạn có thể ăn thêm hoa quả, rau xanh khác.

Những người bị huyết áp thấp không nên giảm cân bằng bí đao vì bí đao rất ít calo, 100g bí mới có 15calo nên sẽ dễ làm hạ huyết áp của bạn. Do vậy, nếu bạn bị huyết áp thấp muốn giảm cân thì hãy ăn uống như bình thường vào bữa tối và chỉ coi bí đao như một loại rau mà thôi.

An Ngọc Hoa

(Theo Women’s Health)

Những bệnh có thể chữa được bằng tế bào gốc

Liệu pháp tế bào gốc mặc dù khá mới nhưng đã được sử dụng rộng rãi để điều trị nhiều bệnh. Dưới đây là danh sách các bệnh chữa được bằng tế bào gốc.

U não

Trong nghiên cứu đột phá này, các nhà khoa học đã “bẫy” virút herpes trong các tế bào gốc và sử dụng chúng để nhằm vào các khối u não. Thử nghiệm đã cải thiện đáng kể tỷ lệ sống sót của chuột bị loại u não phổ biến nhất ở người là u nguyên bào thần kinh đệm đa hình. Các tế bào gốc trung mô (MSC) đã được sử dụng làm hệ thống phân phối thuốc có hiệu quả và được sử dụng để mang vi rút chống ung thư. Virút đã giúp làm teo nhỏ khối u khi nó chuyển từ tế bào gốc vào tế bào khối u. Kỹ thuật đã giúp hình thành phương pháp điều trị mới cho bệnh ung thư này.

Bệnh tim

Các nhà nghiên cứu đã thiết kế được “tim mini” từ tế bào gốc để giúp chuyển hướng dòng máu từ tĩnh mạch mà không cần van chức năng. Một cơ quan giống như “băng cuốn” được tạo thành từ tế bào cơ tim có thể được ghép vào tĩnh mạch để hỗ trợ dòng máu đi qua đoạn tĩnh mạch. Vì “bang cuốn” này được tạo thành từ chính tế bào của bệnh nhân nên nó làm giảm nguy cơ thải ghép.

Bệnh tiểu đường týp 1

Các nhà nghiên cứu thấy rằng các tế bào gốc có thể được chuyển đổi thành các tế bào sản xuất insulin và do đó có thể sử dụng để điều trị bệnh tiểu đường týp 1. Các tế bào được nuôi trong phòng thí nghiệm được ghép vào cơ thể người sẽ trưởng thành và thực hiện đầy đủ chức năng.

Điếc

Nguyên nhân phổ biến nhất của điếc là tổn thương trong tai. Một nghiên cứu cho rằng có thể sử dụng các tế bào gốc của ốc tai (tế bào được tìm thấy trong tai) để phục hồi thính lực. Tế bào gốc ốc tai có một khả năng bẩm sinh của tự tái tạo và phân chia thành các loại tế bào khác nhau và ốc tai có thể được tái sinh và biệt hóa thành ốc tai trưởng thành, dây thần kinh và các tế bào thần kinh đệm. Do đó, chúng có thể được sử dụng để thiết kế cấu trúc thần kinh bên trong tai giúp điều trị khiếm thính.

Bệnh da

Nghiên cứu chỉ ra rằng liệu pháp gen dựa trên tế bào gốc có thể chữa các chỗ rộp da hoặc khối u trên da. Bệnh ly thượng bì bóng nước – một bệnh di truyền - giờ đây có thể điều trị thành công bằng liệu pháp gen. Trong nghiên cứu này, tế bào gốc da được ghép vào chân của bệnh nhân và chức năng da bình thường được hồi phục mà không có tác dụng phụ.

Vô sinh

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng vô sinh ở nam giới có thể được điều trị bằng cách sử dụng tế bào gốc. Các tế bào gốc lấy từ tế bào da của nam giới vô sinh đã được sử dụng để sản xuất tế bào tiền thân của tinh trùng mà cuối cùng có thể dẫn đến sản sinh tinh trùng khỏe mạnh. Nghiên cứu cũng cho biết có thể ghép tế bào mầm bắt nguồn từ tế bào gốc vào tinh hoàn của nam giới bị rối loạn sản xuất tinh trùng, do đó đem lại hy vọng làm cha cho nhiều người.

Phổi

Các nhà khoa học đã phát triển một kỹ thuật mới biến đổi các tế bào gốc của người thành các tế bào của phổi và đường hô hấp. Quá trình này có thể được sử dụng để tạo ra các mô của phổi sử dụng cho cấy ghép. Phát hiện này đã mở đường cho việc điều trị các bệnh phổi khác nhau như xơ phổi vô căn (IPF).

Bệnh bàng quang

Các nhà khoa học đã phân lập được tế bào chuyên biệt từ các tế bào gốc của người, có thể được sử dụng để điều trị các rối loạn ở bàng quang. Họ đã sử dụng tế bào gốc của người để tái tạo mô bàng quang trong phòng thí nghiệm, có thể được cấy vào làm tăng thêm hoặc thay thế bàng quang bị suy chức năng. Nghiên cứu này đã mở đường cho phương pháp điều trị mới để điều trị bệnh nhân bị rối loạn bàng quang.

BS Nhật Nguyệt

(Theo THS)

Hạ thân nhiệt ở người cao tuổi và cách xử trí

Mùa đông xuân ở miền Bắc thường có mưa phùn giá lạnh nếu không mặc đủ ấm có thể làm nhiệt độ cơ thể giảm xuống dưới mức bình thường (dưới 35 độ hoặc hơn). Khi giảm thân nhiệt dễ làm tổn thương nhiều cơ quan và gia tăng nguy cơ tử vong nhất là người cao tuổi.

Những yếu tố nguy cơ

Người cao tuổi khả năng kiểm soát và điều chỉnh nhiệt độ cơ thể bị giảm đi so với người trẻ; Người cao tuổi dinh dưỡng kém, mắc nhiều bệnh mạn tính và dùng nhiều loại thuốc nên dễ bị tổn thương hơn do lạnh; Người cao tuổi có xu hướng uống quá ít nước và dễ mất nước ngay cả trong mùa đông lạnh; Những người cao tuổi thiếu hoạt động ở nhà, ăn mặc không thích hợp cho thời tiết lạnh; Nhiều người cao tuổi thường có thói quen tiết kiệm chi phí nên ít dùng máy sưởi ấm.

Làm thế nào để xác định hạ thân nhiệt ở người cao tuổi?

Trong giai đoạn đầu của hạ thân nhiệt, da lạnh, có thể có ngón tay và môi xanh, giảm sự tỉnh táo, lú lẫn nhẹ, nói lắp. Tuy nhiên, luôn nhớ rằng những người cao tuổi bị hạ thân nhiệt có thể không rùng mình hay phàn nàn về cảm giác lạnh; Lưu ý hạ thân nhiệt mà không thể được xác định bằng cách sử dụng nhiệt kế gia dụng, phải sử dụng nhiệt kế y tế để xác định. Vì sử dụng nhiệt kế không đúng, người già sẽ trở nên ít cảnh giác và sự nhầm lẫn có thể làm trầm trọng thêm hạ thân nhiệt, nguy hiểm cho hệ thống hô hấp và chức năng tim.

Hạ thân nhiệt Thời tiết lạnh người cao tuổi dễ bị hạ thân nhiệt, gây tổn thương nhiều cơ quan trong cơ thể.

Trường hợp người cao tuổi sống một mình, xử trí thế nào?

Người sống một mình có thể gặp khó khăn khi làm ấm nóng nhà và chăm sóc cho bản thân (mặc quần áo, ăn, uống). Họ có nguy cơ cao đối với thương tổn do lạnh. Đôi khi, người già sống một mình bị té ngã ở nhà và vẫn còn nằm trên sàn lạnh trong thời gian dài, có thể dẫn đến hạ thân nhiệt nặng. Do đó, cần thực hiện các giải pháp sau đây: Giữ liên lạc thường xuyên với gia đình, bạn bè, hàng xóm hoặc tình nguyện viên công tác xã hội; Nên thiết lập và đăng ký các chi tiết cá nhân khi sống đơn độc (tên, địa chỉ và số điện thoại) cho các tổ chức quản lý người cao tuổi (câu lạc bộ người cao tuổi, trạm y tế, bác sĩ gia đình...) để được theo dõi sức khỏe định kỳ và liên hệ khi cần thiết.

Phải làm gì nếu nghi ngờ bị hạ thân nhiệt ở người cao tuổi?

Gọi trợ giúp y tế ngay lập tức tại nhà và/hoặc đi đến bệnh viện ngay lập tức; Trước khi sự hỗ trợ y tế, cần: Nhẹ nhàng di chuyển người cao tuổi đến một nơi ấm và khô; Nếu quần áo đang mặc bị ướt phải thay ngay quần áo khô và cuộn người trong chăn để giữ ấm; Để họ nằm yên, không trở người nhiều, cho uống ngay nước ấm (trà gừng ấm, sữa ấm...).

Biện pháp nào phòng ngừa?

Cần sưởi ấm thích hợp và tránh tiếp xúc với lạnh

Duy trì nhiệt độ khoảng 240C trong phòng. Mua một nhiệt kế đo nhiệt độ phòng là rất cần thiết; Để cho hệ thống sưởi có hiệu quả, khép kín các cửa nhà (cửa sổ, cửa ra vào...). Không khí trong phòng nên được giữ đủ độ ẩm: tránh không khí quá khô và khó chịu cho hơi thở, trong khi đồng thời tránh không khí quá ẩm ướt có thể gây bệnh; Kiểm soát sự an toàn của máy sưởi trong nhà, với sự hỗ trợ của các thành viên trong gia đình và các chuyên gia. Nghiêm cấm sử dụng máy sưởi chạy bằng dầu hỏa, vì loại máy này thải ra carbon monoxide có thể gây mất ý thức; Mặc quần áo đủ ấm và thoải mái để tránh mất nhiệt, nhưng không làm hạn chế đi lại trong nhà; Điều quan trọng là mặc đủ ấm và ăn uống đầy đủ vào buổi sáng, vì cơ thể vẫn không đủ hoạt động (do sự trao đổi chất thấp) để làm ấm; Vào ban đêm, khi đi ngủ, cần đắp chăn ấm, mặc quần áo đủ ấm, đi tất chân và nhiệt độ phòng đủ ấm (sử dụng máy sưởi an toàn); Tránh ra ngoài trong thời tiết lạnh. Nên theo dõi các dự báo thời tiết và có kế hoạch ra khỏi nhà phù hợp; Khi cần thiết rời khỏi nhà, cần mặc ấm, có áo khoác, đội mũ len và đeo găng tay.

Giữ thói quen sức khỏe lành mạnh

Uống đủ lượng nước trong mùa đông, uống 6-8 ly nước ấm một ngày, ngay cả khi không cảm thấy khát nước; Tránh uống rượu và đồ uống có chứa caffeine; Ăn thường xuyên, các bữa ăn tương đối nhẹ 5-6 lần một ngày, tránh ăn các bữa ăn nặng; Dùng thức uống và thực phẩm nóng giúp bảo vệ thân nhiệt; Khi ở nhà, chủ động vận động thích hợp để tăng lưu lượng máu và tăng nhiệt độ cơ thể.

Tham khảo ý kiến bác sĩ

Tham khảo ý kiến bác sĩ về việc uống thuốc có thể làm tăng độ nhạy cảm với thời tiết lạnh (đặc biệt là thuốc ngủ, thuốc an thần và thuốc giảm đau “mạnh”) có thể nâng cao các rủi ro khi tiếp xúc với lạnh.

Trường hợp nghi ngờ bị hạ thân nhiệt (giảm nhiệt độ cơ thể) - nếu người già xuất hiện lạnh, kém đáp ứng hay lú lẫn cần gọi trợ giúp y tế ngay lập tức.

BS. Hải Châu

((Theo health.gov.il))

Chuyện “nhiều” và “ít” trong dịp tết

Ít mặn, nhiều chay

Bữa ăn ngày tết cần ít “món mặn”, ăn nhiều “món chay” như: rau cải, chế phẩm đậu. Dùng món mặn chứa chất đạm hơi nhiều, thường gây ra bốc hỏa, táo bón, cảm giác mỏi mệt, ủ rũ, đường ruột trướng khí (sình bụng), bộc phát các bệnh cao mỡ máu, bệnh mạch vành, tai biến mạch máu não… Chất chống oxy hóa của rau lá màu xanh và các vitamin giúp bảo vệ gan; ăn nhiều chế phẩm đậu có chứa lecithin, đại táo, củ mài, câu kỷ… có tác dụng bảo vệ lá gan.

Ít béo, nhiều mát

Ngày tết cần ít ăn chất béo, ăn nhiều thức ăn thanh mát. Thịt nguội, thịt đông, thịt kho tàu… là thức ăn giàu chất béo. Chất béo quá nhiều gây ra rối loạn trao đổi chất, hình thành các bệnh đường tiêu hóa và đường hô hấp. Khuyến cáo có thể chọn một số phương pháp chế biến bằng nấu, luộc, hấp…, tránh chế biến thức ăn bằng chiên, rán. Thức ăn thanh mát gồm: xà lách, củ cải, rong biển, phối hợp với gan heo, gan gà, thịt nạc cắt sợi… chế ra những món thanh đạm, tươi ngon.

Ít mặn, nhiều nhạt

Dịp tết tổng lượng thức ăn đầu vào thường tăng, có người thích món lạp xưởng, thịt lạp, vịt lạp, cá muối, dưa món… hàm lượng muối trong cơ thể sẽ tăng cao. Thức ăn nhiều muối ăn quá nhiều, tăng gánh nặng cho tim, làm huyết áp tăng cao, bộc phát các bệnh tim mạch. Do vậy, các nhà dinh dưỡng khuyến cáo ngày tết chế biến món ăn nên ít muối, vị nhạt hơn.

Ít thịt đỏ, nhiều thịt trắng

Phần đông người ta thích dùng thịt, nhất là thịt đỏ (bò, heo, dê, cừu…) vì có nhiều dinh dưỡng, ăn ngon. Tuy nhiên, ta lại e sợ thịt chứa nhiều chất béo, dễ ràng buộc bởi chứng cao mỡ máu, thậm chí dẫn đến bệnh mạch vành, đái tháo đường, đột quỵ. Giải quyết vấn đề nan giải này là ít dùng thịt đỏ, dùng nhiều thịt trắng. Thịt trắng (gà, vịt, ngỗng) mặc dù đều cùng thuộc chất béo động vật, nhưng thịt gia cầm có kết cấu chất béo khác với thịt bò, heo, cừu, dê, hơn nữa kết cấu chất béo này gần giống với dầu ô liu, nên có tác dụng bảo vệ tim mạch.

Ít lạnh, nhiều nóng

Thời tiết dịp tết vẫn mát lạnh, có người thích dùng đồ nguội, món gỏi. Đồ lạnh gây tổn thương tỳ vị, lại kèm thức uống lạnh, làm cho các hệ thống bên trong cơ thể xuất hiện tình trạng co thắt, máu chảy không đều. Có thể chọn dùng thức ăn ôn bổ dương khí như: hành, hẹ, tỏi, gừng, bù tạt…; người có tỳ vị kém ít dùng thức ăn hàn lạnh như: dưa chuột, củ niễng…

Ít rượu, nhiều trà

Cồn tạo ra kích thích thành dạ dày, làm cho niêm mạc dạ dày sung huyết, lở loét, tổn hại các cơ quan như gan, não. Sau khi uống rượu bia có cảm giác no, không thèm với cơm, nếu như buộc phải dùng bia rượu, trước tiên dùng điểm tâm, bánh, cháo. Nhà dinh dưỡng khuyến cáo uống nhiều nước đun để nguội, uống trà, dùng trà thay cho rượu.

Ít tinh chế, nhiều món tươi

Chả lụa, giò thủ, lạp xưởng, jăm-bông, thịt xông khói… là thức ăn chế biến sẵn, khẩu vị không kém, có lẽ bạn càng yêu thích với những thực phẩm tinh chế này. Tuy nhiên, trong quá trình chế biến, thêm vào chất phụ gia hàn the, nitrat, mục đích có tác dụng chống mốc, làm giòn, giúp thực phẩm luôn tươi ngon, một khi những chất độc hại này đi vào cơ thể, phân giải thành chất nitrosamine có tác dụng gây ung thư cực mạnh, nguy hại đến sức khỏe nghiêm trọng. Cho nên, tránh xa các món tinh chế, dùng nhiều các món tươi tự chế biến có ích cho cơ thể.

Ít ngọt, nhiều đắng

Ngày tết nên giảm ăn ngọt, dùng thêm một số thức ăn vị đắng, chẳng hạn như: khổ qua (mướp đắng), cải bẹ, tim sen, hạnh nhân, trà, cà phê, chocolate đen… Thức ăn vị đắng cân bằng âm dương, theo đó đảm bảo quả tim hoạt động bình thường, mang máu và oxy đến khắp các cơ quan và tổ chức trong cơ thể.

Ít ăn, nhiều vận độngThời gian nghỉ tết, người thành thị thường dùng điện thoại, tin nhắn, email để chúc tết, nằm nhà xem tivi. Ngày thường đi làm bằng xe máy, xe hơi, ít vận động, dịp tết được nghỉ dài ngày không cần đến công sở, càng ít vận động. Không ít người còn tận dụng ngày tết ngủ bù, vận động càng ít. Cho nên, khuyến cáo mỗi người ngày tết ít ăn, vận động nhiều. Ăn uống cần có sự điều tiết, bên cạnh vận động cũng cần có sự điều tiết phù hợp.

LY.DS. BÀNG CẨM

6 dưỡng chất giúp trí não minh mẫn, nhạy bén

Nước

Trong các thành phần cấu tạo não, có khoảng 80% là nước. Một nguyên tắc vàng bạn cần ghi nhớ là cung cấp đủ nước cho cơ thể. Việc thiếu hụt nước có thể làm tăng hormon gây stress, ảnh hưởng xấu đến các hoạt động của não. Vì thế, nên uống ít nhất 2 lít nước mỗi ngày để não hoạt động tốt hơn.

Đường glucose

Là một chất cung cấp năng lượng giúp não bộ hoạt động nên không thể thiếu trong khẩu phần ăn hàng ngày. Nó được cơ thể chuyển hóa từ các thức ăn có chứa đường và các chất hydratcarbon. Đó là lý do tại sao uống một cốc nước đường có thể tăng cường trí nhớ, suy nghĩ và khả năng nhận thức. Tuy nhiên, ăn quá nhiều đường sẽ làm suy giảm trí nhớ, vì thế nên ăn một lượng đường vừa đủ sẽ làm tăng trí nhớ mà không sợ bị tăng cân. Nguồn cung cấp chất đường tốt nhất là từ ngũ cốc nguyên hạt và trái cây tươi.

Ngũ cốc nguyên hạt giúp tăng cường hoạt động trí não.

Ngũ cốc nguyên hạt giúp tăng cường hoạt động trí não.

Protein (chất đạm) tốt cho chức năng của não

Một trong những lợi ích của protein là giúp bạn kéo dài trí nhớ. Khẩu phần ăn nhiều thịt nạc và ít mỡ sẽ rất tốt cho việc giảm cân và tốt cho sức khỏe, hơn nữa nó cũng rất tốt cho chức năng não. Protein động vật được tìm thấy trong những nguồn thực phẩm như gà tây, cá ngừ và thịt gà, cung cấp cho não chất tyrosine, một loại amino acid giúp làm tăng lượng dopamine và norepinephrine trong não. Đây là những chất hóa học giúp giữ cho não luôn tỉnh táo và tinh thần tập trung hơn. Những nguồn cung cấp protein có ích khác là các loại đậu, đậu Hà Lan, thịt bò nạc, pho mát ít béo, cá, sữa, thịt gia cầm, sản phẩm từ đậu nành và sữa chua.

Acid amin là đơn vị cấu tạo của protein. Não bộ cần để chế tạo các chất dẫn truyền thần kinh và cung cấp năng lượng. Hai loại acid amin quan trọng cho trí não là tryptophan và tyrosine. Tryptophanlà tiền thân của chất làm dịu thần kinh serotonin. Cơ thể không tạo ra tryptophan được nên cần thực phẩm cung cấp. Tyrosine cần để sản xuất các chất dẫn truyền hưng phấn trí não là dopamine, epinephrine và norepinephrine. Cơ thể tạo ra được tyrosine nếu trong thực phẩm không có đầy đủ. Mỗi ngày cơ thể cần từ 45 - 50g chất protein.

Choline

Choline là chất giống vitamin, được xem là “món quà” tuyệt vời cho bộ não. Choline có tác dụng giúp não bộ ghi nhớ tốt hơn. Bạn có thể tìm thấy loại chất này trong các loại thực phẩm như cá, gan, trứng, đậu Hà Lan, gạo… Trong đó, lòng đỏ trứng là nguồn thực phẩm chứa nhiều choline nhất.

Chất béo omega-3

60% mô não được cấu thành tự nhiên từ mô mỡ, một phần lớn của mô mỡ được cấu thành từ omega-3. Các chất béo cho phép các nơron hoặc tế bào thần kinh tạo ra cấu trúc đặc biệt của chúng ở trong não. Lượng omega-3 trong lớp màng đôi của các tế bào thần kinh có tầm quan trọng đặc biệt, vì nó làm tăng tính lưu động và tạo thuận lợi cho việc truyền dẫn tín hiệu và hoạt động chức năng của tế bào thần kinh. Axit docosahexaenoic (DHA) chiếm 10-20% tổng chất béo của não, là chất béo omega-3 quan trọng nhất đối với não được coi là “gạch xây não người”.

Từ khi thụ thai, DHA và EPA là các chất béo omega-3 cần thiết cho sự phát triển và hoạt động chức năng của não. Việc hấp thu DHA nhanh nhất trong ba tháng cuối của thai kỳ, vì DHA chiếm khoảng xấp xỉ 9% toàn bộ mô não ở những em bé sinh đủ tháng bình thường. Ở những trẻ sinh non, tỉ lệ mắc các triệu chứng liên quan tới rối loạn thiếu tập trung, mất khả năng học tập, lo lắng và hoạt động xã hội kém cao hơn đáng kể. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng em bé của các thai phụ chủ động bổ sung omega-3 cho chế độ ăn uống hoặc bằng các sản phẩm bổ sung, tăng chức năng nhận thức dẫn tới sự phát triển ngôn ngữ, thị lực và vận động tốt hơn. Việc bổ sung các chất béo omega-3 có thể làm tăng lượng glucose đến não, đó có thể là lý do giúp cho chức năng não được tốt hơn. Từ lâu nay, cá vẫn được coi như “thực phẩm của trí não”, chất béo này có ở cá thu, cá hồi, cá trích, cá cơm, cá ngừ và một số thực vật như đậu nành, lạc, vừng, ôliu, hướng dương, hạt óc chó, rong biển… Nên ăn cá 3 lần/tuần.

Phospholipid

Là chất giúp tạo myelin bao bọc dây thần kinh dẫn đến việc truyền các tín hiệu chỉ đạo của bộ não tốt hơn. Chất phospholipid có nhiều trong lòng đỏ trứng, thịt nội tạng…

Bên cạnh việc cung cấp những dưỡng chất thiết yếu cho não, cần hạn chế hoặc loại bỏ những chất có hại cho não như các chất béo chuyển hóa (transfatty acid), rượu, thuốc lá…Tăng cường tiêu thụ các chất dinh dưỡng thiết yếu cho não bằng cách ăn xen kẽ các thực phẩm mà não cần, bằng các thực phẩm có nguồn gốc tự nhiên.Cân bằng giữa ba chất dinh dưỡng chính là carbohydrat (chất bột), chất béo và chất đạm để não có thể làm việc hiệu quả ban ngày và nghỉ ngơi thoải mái ban đêm.Nên thường xuyên vận động trí não để tránh sa sút trí tuệ. Kích thích tế bào não bằng các trò chơi trí óc như cờ tướng, ô chữ, games… Tập luyện cơ thể đều đặn mỗi ngày để tăng máu huyết lưu thông lên não và đừng để cơ thể bị béo phì.Hoạt động của bộ não con người là hoạt động quan trọng, thiết yếu. Hãy biết cách chăm sóc và “nạp nhiên liệu” cho nó một cách đúng đắn để cơ thể phát triển khỏe mạnh, luôn minh mẫn và toàn diện về mọi mặt.

ThS.BS. Lê Thị Hải

Bệnh vẩy nến Erythrodermic

Bệnh vẩy nến Erythrodermic hay còn gọi là thể vẩy nến đỏ da toàn thân là một loại bệnh vẩy nến hiếm gặp. Nó chỉ chiếm khoảng 3% các ca bệnh vẩy nến.

Phân biệt bệnh vẩy nến Erythrodermic với một số loại bệnh vẩy nến khác

Vẩy nến là bệnh da mạn tính, không ổn định và hay tái phát. Có rất nhiều loại bệnh vẩy nến và chúng có nhiều triệu chứng khác nhau:

Bệnh vẩy nến thể mảng là một dạng phổ biến của bệnh vẩy nến (chiếm đến 80-90% ca bệnh vẩy nến). Tổn thương vẩy nến thể mảng thường xuất hiện ở những vùng da hay bị tỳ đè như khuỷu tay, đầu gối, lưng, bụng. Trên các mảng da màu đỏ là lớp sừng dày màu trắng gây ngứa ngáy. Bệnh vẩy nến mảng không ổn định làm tăng nguy cơ bệnh vẩy nến Erythrodermic.

Bệnh vẩy nến Guttate: Hay còn gọi là thể giọt. Tổn thương là các chấm có đường kính từ 1-3mm (như giọt nước), nổi rải rác khắp người, nhất là nửa người trên, màu đỏ tươi, trên phủ vẩy mỏng màu trắng đục, dễ bong, cạo vụn ra như phấn. Bệnh thường gặp ở trẻ hay người trẻ tuổi, sau nhiễm liên cầu khuẩn hầu họng.

Bệnh vẩy nến đảo ngược (Inverse): Tổn thương biểu hiện dưới dạng các dát đỏ da sưng lên ở nếp gấp của cơ thể, chẳng hạn như quanh nách, háng và vú.

Bệnh vẩy nến Erythrodermic Cháy nắng có thể gây ra một sự bùng phát của bệnh vẩy nến Erythrodermic.

Bệnh vẩy nến mụn mủ (Psoriasis): Đây là loại vẩy nến có thể được xác định khi các mụn nước và mụn mủ xuất hiện khắp cơ thể. Triệu chứng đi kèm có thể là sốt, ớn lạnh, ngứa ngáy và tiêu chảy...

Bệnh vẩy nến Erythrodermic: Đây là một dạng bệnh vẩy nến thể hiện đặc biệt rầm rộ, gây viêm. Người bệnh phát triển một tình trạng ban đỏ toàn thân: da toàn thân đỏ tươi, bóng, phù nề, căng, rớm dịch, phủ vẩy ướt, không có vùng da nào lành, ngứa dữ dội, các nếp kẽ bị trợt loét, rớm dịch mủ, nứt nẻ, đau rát trên toàn bộ bề mặt của cơ thể.

Nguyên nhân gây bệnh vẩy nến Erythrodermic

Các nhà khoa học không chắc chính xác nguyên nhân gây ra bệnh vẩy nến nói chung, nhưng nghi ngờ có liên quan tới hệ thống miễn dịch hoạt động rối loạn. Tuy nhiên, nguyên nhân gây ra chứng vẩy nến Erythrodermic vẫn còn chưa rõ ràng.

Yếu tố nguy cơ

Trong khi nguyên nhân chính xác của bệnh vẩy nến Erythrodermic chưa được biết, nhưng một số tình huống có thể kích hoạt bệnh này bao gồm: đột nhiên ngừng điều trị bệnh vẩy nến, nhiễm trùng, cháy nắng, căng thẳng thần kinh, uống rượu quá mức; phản ứng dị ứng và phát ban; uống thuốc steroid.

Dấu hiệu nhận biết

Các triệu chứng của vẩy nến erythrodermic bao gồm: phần lớn da trên cơ thể đỏ nghiêm trọng; da trông như bị bỏng, da bong từng mảng lớn nhiều hơn là các mảnh nhỏ hoặc vẩy; xuất hiện các mụn nước, mụn mủ; ngứa nặng; đau rát dữ dội; tăng nhịp tim; sốt cao... Những triệu chứng này sẽ xuất hiện ở hầu hết người bệnh trong một cơn bùng phát bệnh vẩy nến Erythrodermic. Vì bệnh vẩy nến Erythrodermic có thể làm thay đổi trao đổi chất của cơ thể, người ta cũng có thể gặp các triệu chứng khác. Những triệu chứng này bao gồm: sưng tấy, đặc biệt là xung quanh vùng mắt cá chân; đau khớp; ớn lạnh hoặc sốt.

Biến chứng nguy hiểm

Da hoạt động như lớp rào cản của cơ thể đối với môi trường, giúp cơ thể khỏe mạnh. Khi da bị tổn thương nghiêm trọng, đó là những gì xảy ra với bệnh vẩy nến Erythrodermic, toàn bộ lớp bảo vệ này bị tổn hại, làm cho cơ thể dễ bị các biến chứng nghiêm trọng. Những biến chứng này bao gồm: suy kiệt do mất dịch và protein; sưng phù nặng từ sự giữ nước; nhiễm trùng nặng bao gồm viêm phổi và nhiễm khuẩn huyết; suy tim sung huyết.

Nếu một người nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào của bệnh vẩy nến Erythrodermic, điều quan trọng là phải tìm sự chăm sóc y tế ngay vì những biến chứng nặng, đe dọa đến mạng sống có thể xảy ra.

Điều trị và dự phòng

Bệnh vẩy nến Erythrodermic có thể rất khó chữa, đặc biệt nếu có biến chứng. Các lựa chọn điều trị bao gồm: kem steroid và kem dưỡng ẩm; băng ẩm; nghỉ ngơi tại giường; các thuốc điều trị toàn thân, gồm methotrexate, acitretin, cyclosporine, hoặc retinoids; thuốc ức chế sinh học TNF; truyền dịch hoặc bù chất điện giải; kháng sinh để ngăn ngừa hoặc điều trị các bệnh nhiễm khuẩn khác.

Để ngăn ngừa bệnh vẩy nến Erythrodermic, những người bị bệnh vẩy nến nên tuân thủ chế độ điều trị và tránh các yếu tố nguy cơ kể trên. Sau một đợt bùng phát hồng ban, da có thể sẽ trở lại tình trạng trước đó. Tuy nhiên, vì cơ hội của các biến chứng quá cao, triển vọng là khó khăn. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng bệnh vẩy nến Erythrodermic gây tử vong đến 64% các trường hợp bệnh. Tuy nhiên, với việc chẩn đoán sớm và điều trị tích cực, tỷ lệ tử vong sẽ giảm.

BS. Nguyễn Quân

Cách chăm sóc người cao tuổi mất trí nhớ tại nhà

Về ăn uống sinh hoạt: Do lú lẫn, mất trí nhớ người bệnh thường không nhớ giờ ăn, không biết mình đã ăn chưa, đã uống nước chưa nên người nhà cần nhắc nhở giờ ăn, uống nước, uống thuốc. Đôi khi bệnh nhân chỉ thích ăn một món, dễ bị thiếu dinh dưỡng. Vì vậy nên xen kẽ món ăn khác nhau, nhiều người còn quên cách dùng đũa, thìa có thể thay bằng món ăn cầm tay. Cần cho người bệnh ăn bữa phụ trong ngày do bữa ăn chính không đủ no.

Đối với việc vệ sinh cá nhân: Tắm rửa, cần chủ động nhắc nhở hoặc chuẩn bị đồ giúp người bệnh. Có thể người bệnh chỉ cần thay quần áo hằng ngày, mùa đông 3 - 4 ngày mới cần tắm. Cần chuẩn bị nước nóng hay lạnh cho phù hợp với thời tiết tránh cảm giác của người bệnh không chuẩn dễ bị bỏng hoặc lạnh. Cần sử dụng ghế ngồi để tắm, tránh té ngã.

Người cao tuổi cần được chăm sóc.

Đối với giấc ngủ: Giấc ngủ rất quan trọng với người lú lẫn, do vậy để ngủ ngon giấc ban đêm, nên khuyến khích bệnh nhân tham gia nhiều sinh hoạt ban ngày, tránh uống nhiều nước buổi chiều để hạn chế thức dậy tiểu đêm. Không nên lạm dụng thuốc ngủ khi chưa có chỉ định của bác sĩ. Không để cho ngủ ngày quá nhiều.

Quần áo của người bệnh cần đủ ấm về mùa đông, đủ mát về mùa hè. Cần quần áo rộng rãi, thoải mái khi mặc, ít cúc, khóa kéo rắc rối. Đối với giầy, dép dễ đi không dây buộc hoặc có vải dính.

Đối với phòng ngủ và nhà ở: Nhà ở, phòng ngủ luôn sạch sẽ, thoáng mát về mùa hè, ấm về mùa đông. Phòng ở đầy đủ ánh sáng, ít đồ đạc, để dễ đi lại, tránh té ngã. Tất cả thuốc men, đồ điện, phích nước có nguy cơ gây bỏng, gây tai nạn cần để cao, có khóa tránh người bệnh tự lấy uống, sử dụng gây nguy hiểm đến tính mạng. Đối với phòng ngủ và trong gia đình nên treo ảnh kỷ niệm của bệnh nhân để kích thích trí nhớ. Treo đồng hồ, lịch chữ to để nhắc nhở ngày tháng, thời gian. Gia đình, người thân, con cháu cần trò chuyện với bệnh nhân thường xuyên để có sự giao tiếp giúp cho kích thích trí nhớ.

Nếu có điều kiện thay ổ khóa cửa mở cần chìa, gắn hệ thống báo động cửa ra vào. Cho bệnh nhân mang vòng tay có ghi tên họ, địa chỉ, số điện thoại để lỡ có lạc giúp tìm được bệnh nhân.

Biểu hiện đầu tiên của lú lẫn, mất trí nhớ là thay đổi tính tình và giảm trí nhớ. Người bệnh dễ mệt mỏi, tức giận hoặc lo âu, thường hay quên đồ dùng mình để chỗ nào nên mất thời gian tìm kiếm hoặc nghĩ rằng có kẻ lấy cắp. Khi lấy, là quần áo hoặc vặn nước thường quên tắt sau khi làm xong. Dần dần, trí nhớ người bệnh ngày càng giảm sút, khó hòa nhập môi trường xã hội chung quanh. Họ quên tên đồ đạc, quên tên bạn thân, không hiểu các con số trên hóa đơn, không hiểu những câu trong sách báo, ăn mặc không phù hợp hoàn cảnh. Cuối cùng, người bệnh trở nên lú lẫn, không biết ngày, tháng, năm, không nói được địa chỉ đang sống. Nếu đi khỏi nhà thì thường lang thang và không tìm được đường về, không thể nói chuyện mạch lạc, không nhận ra con cái, quên cách tắm rửa, ăn uống.

BS. Nguyễn Đức

Phương pháp mới cho bệnh vẩy nến

Đây là một rối loạn thường gặp với 2-3% dân số trên toàn thế giới, một số trường hợp gây ra những biến chứng ở móng tay và các khớp cũng như các tổn thương trên da.

Yếu tố di truyền cũng như các yếu tố kích thích đóng một vai trò quan trọng trong nguyên nhân gây bệnh. Biểu hiện lâm sàng của bệnh vảy nến rất đa dạng, nhưng thường gặp nhất là vảy nến thể mảng, đặc trưng bởi các tổn thương dạng ban hồng, nổi sần hình tròn hoặc hình bầu dục, bao phủ bởi lớp vẩy màu trắng bạc. Mặc dù các tổn thương có thể khu trú ở bất kì vùng nào trên bề mặt da, các vị trí thường thấy là khuỷu tay, đầu gối, da đầu và vùng thắt lưng – cùng và đối xứng hai bên.

Các biểu hiện tại da của bệnh vảy nến có thể khác nhau về hình thái và mức độ và việc điều trị nên được thay đổi cho phù hợp. Điều trị tại chỗ bệnh vảy nến đã được giới hạn với corticosterois, các dẫn xuất của vitamin D, axit salicylic, các axit gốc α-OH, thuốc mỡ anthralin, kem làm mềm da, bột hắc ín, các retinoid, các thuốc ức chế miễn dịch, và các liệu pháp điều trị kết hợp.

Giáo sư Tiến Sĩ Michael Tirant tại Hội nghị Da liễu Đông dương và Hội nghị Da liễu Cấp cao Thế giới tổ chức tại Hà nội tháng 12/2017

Lựa chọn điều trị được xác định bởi mức độ bệnh và vị trí của bệnh vảy nến cũng như các tác dụng phụ, mong muốn và tuân thủ điều trị của bệnh nhân, và những khó khăn về tài chính. Cho đến nay các lựa chọn điều trị tại chỗ và toàn thân đều có sẵn, nhưng không có lựa chọn nào cho kết quả lâm sàng xuất sắc mà không kèm theo nguy cơ tác dụng phụ.

Hướng điều trị mới cho bệnh vẩy nến

Một nghiên cứu lâm sàng tại Rumani được công bố trên tạp chí khoa học Journal of Biological Regulators & Homeostatic Agents, các tác giả đã nghiên cứu về tính hiệu quả của các sản phẩm tự nhiên Dr Michaels® (Soratinex®) trong điều trị tại chỗ ở một nhóm bệnh nhân bị vảy nến. Sáu mươi hai bệnh nhân (34 nam/28 nữ) đến từ Romani, độ tuổi từ 18 đến 70 tuổi (trung bình: 52 tuổi) bị bệnh vảy nến thể mảng mạn tính mức độ nhẹ đến nặng đã được đưa vào nghiên cứu này.

Mỗi bệnh nhân được điều trị bằng một liệu trình ba pha các sản phẩm tự nhiên Dr Michaels® (Soratinex®), hai lần mỗi ngày trong vòng 6 tuần. Thành phần bao gồm các loại tinh dầu Tinh dâu hạnh nhân, Dầu Jojoba, Dầu bơ, Tinh dầu cà rốt, Chiết xuất từ hoa cúc vạn thọ, Tinh dầu cam, Dầu mầm lúa mạch, Dầu hạt mơ, Tinh dầu hoa oải hương, Dầu cây đàn hương, Dầu cây hoắc hương, Cây phong lữ, Chiết xuất hoa hương thảo, Dầu thầu dầu, Tinh dầu cam chua…

Hình ảnh trước và sau 8 tuần sử dụng sản phẩm Dr Michaels® (Soratinex®)

Các sản phẩm này được bôi lên da và vùng da dầu bị tổn thương vảy nến, không bôi lên da mặt, da vùng sinh dục và các nếp gấp. Đánh giá các sản phẩm thử nghiệm dựa trên điểm PASI của mỗi bệnh nhân tại thời điểm tuần thứ 0,1,2,3,4,5 và 6. Các sản phẩm thử nghiệm không có hiệu quả với 5/57 bệnh nhân. Mười một người có cải thiện mức độ vừa (điểm PASI giảm 26-50%), 11 bệnh nhân có cải thiện tốt (điểm PASI giảm 51-75%) và 30 bệnh nhân có cải thiện vượt bậc (điểm PASI giảm 76-100%). 23% tổng số bệnh nhân xuất hiện viêm nang lông nhưng đã hết sau khi ngưng điều trị. Năm bệnh nhân xuất hiện ngứa và triệu chứng dần tự biến mất.

Các hiệu ứng của sản phẩm được đánh giá là không có khác biệt bởi 44% bệnh nhân, là tốt bởi 40% và rất tuyệt vời bởi 16% số bệnh nhân. 95% số bệnh nhân nói rằng họ sẽ tiếp tục sử dụng sản phẩm thử nghiệm này bởi vì nó có hiệu quả và ít tác dụng phụ do đây là các sản phẩm tự nhiên. Trong nghiên cứu thực nghiệm của chúng tôi, ứng dụng tại chỗ của các sản phẩm từ thiên nhiên Dr Michaels® (Soratinex®) đã chứng minh đây là một lựa chọn điều trị tự nhiên có hiệu quả cho bệnh vảy nến.

(Theo Journal of Biological Regulators & Homeostatic Agents)

Hệ thống phòng khám chuyên khoa Dr. Michaels Psoriasis & Skin Clinic tại 81-83 Lò đúc, Hà nội và 87 Trần Não, TP. Hồ Chí Minh và áp dụng phương pháp Dr Michaels: sử dụng các loại thảo dược để điều trị bệnh vảy nến, viêm da cơ địa, bệnh bạch biến và nhiều bệnh da liễu khác. Cơ sở được áp dụng theo tiêu chuẩn, phác đồ tương tự các phòng khám chuyên khoa Dr. Michaels tại Australia, châu u với nguồn thảo dược được sản xuất, nhập khẩu từ Australia.

Phương pháp Dr. Michaels do Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Michael Tirant phát triển hơn 30 năm qua và được thừa nhận rộng rãi để điều trị vảy nến và nhiều bệnh da liễu khác. Nhiều thử nghiệm lâm sàng cũng như các nghiên cứu đánh giá y học đã được công bố quốc tế tại những nước châu u, chứng minh giải pháp Dr. Michaels từ thảo dược đạt hiệu quả cao, an toàn và không có tác dụng phụ. Phương pháp này cũng được đánh giá là an toàn cho trẻ em và phụ nữ có thai.

Phát hiện và chặn các bệnh xương khớp dễ mắc mùa đông – xuân

Trời lạnh và bệnh lý xương khớp

Thời tiết là một yếu tố ảnh hưởng đến sự xuất hiện và phát triển của các bệnh lý, trong đó rõ rệt là các bệnh khớp. Bệnh lý khớp rất đa dạng, bao gồm các bệnh lý khớp viêm như viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, gout cũng như các bệnh thoái hóa như thoái khớp và đau sau chấn thương. Các bệnh nhân khớp trong từng nhóm đều cảm thấy có sự ảnh hưởng rõ rệt của thời tiết. Sự thay đổi của thời tiết kéo theo sự thay đổi của các yếu tố bên trong cơ thể như độ nhớt của máu, độ nhớt dịch khớp, sự kết tủa của các muối, thay đổi nồng độ các hóa chất trung gian trong cơ thể, thay đổi vận mạch. Chính sự thay đổi nội môi này góp phần làm xuất hiện các đợt đau xương khớp.

Một số bệnh khớp hay gặp trong mùa lạnh

Viêm khớp dạng thấp là bệnh chủ yếu gặp ở nữ giới, tuổi trung niên, viêm khớp kéo dài với các đợt sưng đau khớp cấp tính, bệnh nhân thường sưng đau nhiều khớp, sốt, có thể có các biểu hiện ở các cơ quan khác. Nếu không được điều trị, các khớp nhanh chóng bị biến dạng, dính khớp. Các khớp thường gặp nhất là các khớp nhỏ ở bàn tay, khớp cổ tay, khuỷu, gối, cổ chân, bàn ngón chân, cả hai bên. Ở giai đoạn muộn, thường biểu hiện ở các khớp vai, háng, cột sống cổ. Sau nhiều đợt cấp tính hoặc sưng đau khớp kéo dài (vài tháng hoặc vài năm), các khớp có thể biến dạng: bàn tay bị vẹo, cổ tay sưng, các ngón tay ngón chân cũng bị biến dạng, các cơ teo, khiến cho chức năng vận động của bệnh nhân bị giảm sút, thậm chí ở giai đoạn muộn, bệnh nhân trở thành tàn phế.

Viêm khớp dạng thấp và bệnh gout dễ mắc trong mùa đông.

Viêm khớp dạng thấp và bệnh gout dễ mắc trong mùa đông.

Bệnh gout: Bệnh gout là loại bệnh thường gặp phải ở nam giới trên 40 tuổi gây ra tình trạng khó cử động khớp ở một hoặc nhiều khớp khác nhau. Bệnh gout xuất hiện do sự rối loạn chuyển hóa, tăng acid uric máu chính là đặc điểm chính của bệnh. Những người trong quá trình ăn uống sử dụng quá nhiều thực phẩm chứa nhiều chất đạm, uống nhiều bia, rượu,… có nguy cơ mắc bệnh gout cao hơn. Để bệnh ít tái phát trong mùa đông, nên duy trì chế độ tập luyện hàng ngày, giữ ấm cơ thể, nhất là khi ra đường cần phải giữ ấm toàn thân. Đồng thời, hạn chế việc sử dụng các loại thực phẩm có chứa nhiều acid uric như nội tạng động vật, hải sản, mỡ động vật… Cần tránh xa các chất kích thích như: rượu, bia, cà phê... Uống khoảng 2 lít mỗi ngày cũng giúp đào thải bớt lượng acid uric. Buổi tối, trước khi đi ngủ, có thể ngâm chân tay vào nước muối ấm hoặc dùng túi chườm để chân tay được ấm hơn.

Đau vai gáy, đau thắt lưng, các bệnh đau cân cơ. Bệnh thường gặp ở nhân viên văn phòng, ngồi máy tính nhiều… Do trời lạnh, các cơ thường co lại để sinh nhiệt (rét run), tư thế “so vai, rụt cổ” do các cơ vùng gáy co lại để hạn chế tối đa trao đổi nhiệt với môi trường lạnh xung quanh. Các tư thế này phải duy trì trong thời gian dài làm cho các cơ cạnh cột sống bị giữ ở một tư thế lâu, gây mệt và mỏi cơ. Có thể đau một hay hai bên bả vai, hạn chế các động tác của cột sống như cúi, ưỡn, nghiêng…

Co thắt các mạch máu đầu chi trong hội chứng Raynaud, đây là một biểu hiện hay gặp trong bệnh xơ cứng bì toàn thể. Khi tiếp xúc với lạnh, đầu ngón tay, ngón chân bị trắng bệch, tê buốt do thiếu máu đầu chi, sau đó chúng trở nên tím ngắt, căng tức. Bệnh biểu hiện ở các cơ quan, trong đó thường thấy như da dày lên, mờ hoặc mất các nếp nhăn trên mặt, khó há miệng, giảm tiết dịch các tuyến ngoại tiết như tuyến nước bọt, tuyến nước mắt,, xơ hóa phổi, tràn dịch màng ngoài tim, màng phổi…

Thoái hóa khớp và đau nhức xương khớp, đây là tình trạng dễ bị đau nhức vào mùa lạnh. Thoái hóa và đau nhức xương khớp hay gặp ở trung niên nhất là người cao tuổi, do quá trình lão hoá của sụn khớp, sụn bị mất tính đàn hồi, mỏng dần đi và nhuyễn hoá, làm lộ tổ chức xương dưới sụn, gây đau và hạn chế vận động. Khi trời lạnh, các gân cơ bị co rút lại, dịch khớp đông quánh hơn làm cho các khớp trở nên cứng hơn, khó cử động hơn. Hơn nữa, khi trời lạnh, các thói quen tập luyện hàng ngày bị giảm đi cũng góp phần làm bệnh nặng thêm. Mặt khác, mùa lạnh không khí lạnh thâm nhập cơ thể qua đường da bởi các lỗ chân lông, làm cho mạch máu tại các vùng da đó co lại, máu đến các khớp xương bị hạn chế hoặc rất ít nên thiếu máu nuôi dưỡng khớp, các màng hoạt dịch và sụn khớp bị kích thích, gây nên đau nhức. Ngoài ra, ở một số người có tuổi bị thừa cân, béo phì cũng tác động xấu đến các khớp chịu lực cũng rất dễ bị đau nhức xương khớp.

Lời khuyên của thầy thuốcĐể bớt đau khớp mùa lạnh cần bổ sung đầy đủ các chất dinh dưỡng, tăng cường canxi, vitamin C, D có trong các thực phẩm như cam, ớt, cà chua rất tốt cho cơ thể.Uống sữa, ăn các sản phẩm chế biến từ đậu tương ngoài tác dụng bảo vệ tim mạch còn giúp tăng cường cơ xương và ngăn ngừa viêm khớp. Những thực phẩm giàu axit béo omega-3 có trong cá hồi và các loại hạt, rau lá xanh hay cải xoăn giúp dập tắt tình trạng viêm đau khớp của người bệnh.Trong các bệnh lý về khớp, những người bị bệnh gout cần tuân thủ chế độ ăn uống đặc biệt hơn cả. Cần tập luyện vận động hợp lý để phòng cứng khớp. Tuy nhiên, người mắc bệnh lý về khớp, viêm đa khớp dạng thấp cần thực hiện chế độ vận động hợp lý, tốt nhất cần sự tư vấn của các bác sĩ, theo hướng dẫn của các bác sĩ phục hồi chức năng. Người mắc bệnh này cần tránh ngồi một chỗ, hoặc ít vận động dễ bị cứng khớp hoặc vận động không đúng sẽ dẫn đến nguy hiểm cho người bệnh. Bệnh lý về xương khớp là những loại bệnh không thể xem nhẹ, vì vậy cần được phát hiện và điều trị sớm để đảm bảo sức khỏe tốt nhất.

PGS.TS. Trần Trung Dũng

Cô gái mắc chứng bệnh lạ ngủ 21 tiếng/ngày

Mẹ của Hart, bà Angie, cho hay mỗi ngày, Hart chỉ tỉnh táo chừng 3 giờ đồng hồ, còn lại phần lớn thờ gian, Hart đều chìm trong giấc ngủ. Hart đã được điều trị 4 loại thuốc khác nhau song không hề khỏi được bệnh.

Chứng ngủ rũ (narcolepsy) là bệnh rối loạn não hiếm gặp. Não bộ không thể điều chỉnh việc ngủ và thức dậy như bình thường, khiến người bệnh đột nhiên rơi vào giấc ngủ mà không hề có cảnh báo trước hoặc bị tê liệt nhất thời.

Ở Anh, có khoảng 30 nghìn người được chẩn đoán chứng bệnh này.

Hà Anh

(theo Daily Mail)

Những sai lầm trong chăm sóc trẻ ngày lạnh

Thời điểm đầu năm mới (mùa đông xuân), nhiệt độ hạ thấp gây rét đậm, rét hại, độ ẩm trong không khí không ổn định, đan xen những ngày lạnh và khô là những ngày mưa ẩm. Thời tiết thất thường luôn làm các bà mẹ lúng túng trong việc chăm sóc bé yêu của mình như thế nào là tốt và đúng cách. Không ít bà mẹ chỉ chăm sóc con theo kinh nghiệm dân gian hoặc cảm tính đã khiến con mình trở nên ốm nhiều hơn. Những sai lầm phổ biến dưới đây của cha mẹ khi chăm sóc trẻ trong ngày lạnh.

Cho mặc bỉm 24/24 giờ

Con mặc bỉm suốt ngày sẽ tiện nhiều bề cho mẹ và giữ ấm cho trẻ. Tuy nhiên, việc làm này không tốt vì bỉm để lâu có thể gây tổn hại đến sức khỏe và làn da của bé. Trẻ đóng bỉm suốt ngày bị dính nước tiểu dễ bị lở loét, ảnh hưởng xấu tới da. Do đó, trẻ bị hăm là một điều khó tránh khỏi khi phải đóng bỉm thường xuyên. Hơn nữa, khi trẻ đi tiểu nhiều mà chưa kịp thay bỉm, nước tiểu trong bỉm sẽ ngấm ngược gây lạnh cho trẻ.

Đặc biệt, việc dùng bỉm thường xuyên kéo dài ở bé trai còn gây hại cho tinh hoàn. Đeo bỉm thường bị kín hơi, lại bó sát vào cơ thể trẻ, dễ làm cho nhiệt độ tăng lên, trong khi đó nhiệt độ thích hợp nhất cho tinh hoàn bé trai là khoảng 34oC. Khi nhiệt độ tăng lên tới 37oC và nếu tình trạng này diễn ra lâu ngày sẽ ảnh hưởng đến tinh hoàn trong việc sản xuất tinh trùng sau này.

​Không dùng nước quá nóng tắm cho trẻ, nên tắm cho trẻ nhiệt độ từ 33 - 36oC.

Sử dụng điều hòa, máy sưởi ở nhiệt độ cao

Giữ cho phòng ngủ của trẻ kín gió và ấm áp là cần thiết. Nhưng nếu cứ đóng kín cửa phòng 24/24 giờ sẽ khiến không khí trong phòng ngột ngạt, thiếu ôxy, khiến cơ thể mệt mỏi và làm tăng lượng vi khuẩn sinh sôi. Bên cạnh đó, nhiều gia đình lạm dụng các loại thiết bị sưởi ấm như điều hòa, máy sưởi sẽ khiến không khí trong phòng rất khô và cơ thể có nguy cơ mất nước, khô da, khô mũi, ảnh hưởng đến hệ hô hấp gây khó thở ở trẻ em. Vì vậy, cha mẹ chỉ cần đảm bảo nhiệt độ trong phòng luôn ấm áp với nhiệt độ khoảng 28oC, thông thoáng và tránh gió lùa là tốt nhất. Trước khi cho trẻ ra ngoài nên mặc thêm áo khoác và đi giày ấm để tránh cảm lạnh đột ngột.

Dùng nước quá nóng để tắm cho trẻ

Dù trời lạnh thì một tuần cũng nên tắm cho trẻ 2-3 lần. Việc ngại tắm hoặc khi tắm thì dùng nước rất nóng vì sợ trẻ bị lạnh cũng đều là sai lầm. Nhiệt độ nước thích hợp cho trẻ tắm mùa đông là từ 33-36oC. Khi dùng tay để thử thì người lớn cảm thấy nước đủ ấm tức là nước đó bị nóng với trẻ. Vì vậy, cha mẹ nên dùng nhiệt kế để xác định nhiệt độ nước tắm thích hợp cho trẻ. Khi tắm cho trẻ cần tắm trong phòng kín gió, nếu cần thiết chuẩn bị thêm quạt sưởi và chỉ tắm tối đa trong thời gian từ 5-7 phút để tránh cảm lạnh.

Ủ ấm quá mức

Để chống lại cái lạnh giá của mùa đông, cha mẹ thường mặc cho trẻ rất nhiều quần áo. Tuy nhiên đây là một điều hoàn toàn sai lầm, việc ủ ấm quá mức có thể sẽ gây thêm bệnh cho trẻ. Cha mẹ cần biết, thân nhiệt của trẻ không giống như người lớn vì vậy chúng sẽ cảm thấy nóng hoặc lạnh nhanh hơn. Nếu mặc quá ấm, trẻ dễ bị ra mồ hôi lưng, đầu, rồi ngấm ngược lại dẫn đến cảm lạnh, viêm phổi... Việc ứ đọng mồ hôi trên da còn là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát triển gây ra các bệnh về da, gây ngứa ngáy, khó chịu.

Một việc làm thường thấy, nhất là với các trẻ ở nông thôn là đội mũ ấm khi đi ngủ. Đối với trẻ sơ sinh, đầu là nơi tạo ra khoảng 40% thân nhiệt, nhưng đồng thời lại là nơi giải phóng đến 85% nhiệt độ cơ thể. Chính vì vậy, việc đội mũ và dùng băng quấn thóp là cần thiết với bé mới sinh (đặc biệt là các bé sinh non) nhưng với bé khỏe mạnh và đã được vài tháng tuổi, việc đội mũ khi ngủ là không cần thiết, mà ngược lại sẽ khiến nhiệt độ của não bé tăng cao, ảnh hưởng đến hoạt động của vùng thần kinh kiểm soát hô hấp.

Không cho trẻ ra ngoài trời

Trong ngày lạnh, phần lớn trẻ ở trong phòng kín. Có bé vài ngày không ra ngoài trời. Việc ở trong phòng lâu ngày sẽ khiến trẻ ốm yếu và dễ mắc bệnh hơn. Đối với trẻ dưới 5 tuổi, cần được ra ngoài trời tắm nắng hàng ngày để hấp thụ vitamin D, rất có lợi cho quá trình phát triển của trẻ. Thời điểm lí tưởng để mẹ cho trẻ ra ngoài đón nhận ánh nắng mặt trời vào mùa đông là vào khoảng 8-9h30 và thêm khoảng 10-15 phút buổi chiều từ 15-17h. Trẻ cũng cần được vận động ngoài trời để tăng khả năng thích nghi với các yếu tố thời tiết, tăng sức đề kháng, phòng tránh được nhiều bệnh dễ lây nhiễm. Tuy nhiên, khi cho trẻ chơi ngoài trời, cần lưu ý mặc quần áo đủ ấm nhưng vẫn thoáng để khi trẻ ra mồ hôi không thấy quá nóng, thường xuyên kiểm tra mồ hôi lưng để kịp thay áo cho trẻ.

Ðể bụng bé bị nhiễm lạnh

Trẻ nhỏ khi ngủ thường hay đạp tung chăn, hở chân, hở bụng... Điều này sẽ khiến cho bé bị lạnh bụng dẫn đến đau bụng hoặc rối loạn tiêu hóa... Tuy nhiên, không ông bố, bà mẹ nào có thể thức cả đêm để kéo áo, che bụng cho con... Vì vậy, trước khi trẻ đi ngủ nên cho trẻ mặc loại áo liền quần hoặc cho trẻ đắp chăn túi (loại chăn riêng có phéc-mơ-tuya để bảo vệ bụng không bị nhiễm lạnh) và đi bít tất cho trẻ đề phòng trẻ bị nhiễm lạnh.

Lời khuyên của thầy thuốc

Một đứa con khôn lớn, mạnh khỏe là mong ước của cha mẹ. Vì vậy, mọi người cần biết các phương pháp bảo vệ sức khỏe khoa học cho con mình. Đó là: tăng cường sức đề kháng cho trẻ bằng việc bổ sung thực đơn đầy đủ dinh dưỡng, đặc biệt là các loại rau xanh, trái cây chứa nhiều vitamin cần thiết. Cần cho trẻ uống đủ nước, nên uống nước ấm. Giữ ấm cơ thể cho trẻ đúng mức, không nên mặc quá nhiều quần áo khiến trẻ đổ mồ hôi và bị nhiễm lạnh trở lại. Nhắc nhở trẻ rửa tay sạch sẽ trước khi ăn và sau khi chạm vào các vật dụng nơi công cộng như tay nắm cửa, vòi nước, bàn ghế... Vệ sinh môi trường sống cho trẻ sạch sẽ. Hạn chế cho trẻ tới nơi đông người, tránh tiếp xúc với người đang mắc bệnh, tránh xa các nguồn ô nhiễm như khói bụi, khói thuốc lá... Đưa trẻ đi tiêm chủng đầy đủ và đúng lịch để phòng bệnh.

BS. Hạnh Nguyễn

Trị chứng tâm dương hư ở người cao tuổi

Chứng tâm dương hư là do dương khí trong tâm bất túc, khí huyết vận chuyển không sung mãn đầy đủ, phần nhiều do tuổi cao tạng khí hư suy. Nguyên nhân: do ốm lâu ngày thể lực suy yếu, hoặc ra mồ hôi quá nhiều làm hao tổn dương khí; phú bẩm bất túc dẫn đến tâm dương không mạnh, nên sự vận chuyển khí huyết không đầy đủ, do suy nghĩ quá nhiều, làm tổn hao tâm thần dẫn đến tâm dương suy kém hoặc do tâm âm bất túc làm liên lụy đến tâm dương, sự hao tổn của dương khí mà sinh bệnh.

Theo Đông y, chứng tâm dương hư thường gặp trong các chứng: Tâm quý (tim hồi hộp), hung tý (đau vùng ngực), hư lao (cơ thể suy nhược mỏi mệt). Bệnh nhân luôn luôn thấy tim hồi hộp, có cảm giác vùng ngực trống rỗng khó chịu, hay sợ sệt, thở gấp, tự ra mồ hôi, tay chân lạnh, sắc mặt trắng bệch, mỏi mệt, sức yếu, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, lưỡi bệu, mạch tế nhược hoặc kết đại, hoặc trì. Tuỳ từng thể mà dùng bài thuốc thích hợp.

Chứng tâm dương hư sinh chứng suy tim, co thắt mạch vành tim.

Tâm dương hư sinh chứng tâm quý (rối loạn nhịp tim). Do khí và âm của tâm đều hư liên lụy đến dương, dẫn đến tâm dương bất túc, thần không có nơi ở yên ổn, hoặc do âm tà nghịch lên làm tổn hại tâm dương mà sinh bệnh.

Biểu hiện: Trong tâm có cảm giác trống rỗng nên hồi hộp sợ hãi.

Phép trị: ôn thông tâm dương.

Bài thuốc: “Quế chi cam thảo long cốt mẫu lệ thang” gồm: quế chi 12g, cam thảo 16g, long cốt 16g, mẫu lệ 16g. Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày.

Tâm dương hư sinh chứng hung tý (co thắt mạch vành tim). Do tâm khí bất túc dương khí trong hung cách không mạnh, làm vít lấp tắc nghẽn tâm khiếu (động mạch vành) hoặc do đàm trọc làm nghẽn tâm dương, dương khí ở vùng ngực không thông, khí huyết vận hành bị trở ngại, mạch ở tâm tắc nghẽn mà sinh bệnh.

Biểu hiện: Vùng ngực khó chịu, đau từng cơn, đoản hơi, người mệt mỏi...

Phép trị: Ôn trung tán hàn.

Bài thuốc: “Quát lâu giới bạch bán hạ thang”, hoặc bài “Ngô thù du hoàn”: quát lâu 1 quả, bạch giới 120g, bán hạ 25g, rượu trắng vừa đủ. Ngày sắc một thang, chia 3 lần uống trong ngày, uống lúc đói khi thuốc còn ấm.

Tâm dương hư sinh chứng hư lao (suy tim). Do tâm dương bất túc, huyết đi không lưu lợi, tâm khí không đầy đủ mà sinh bệnh.

Biểu hiện: Bệnh nhân sắc mặt trắng bệch, tự ra mồ hôi, người mệt mỏi, sức yếu, lưỡi nhạt, mạch nhược.

Phép trị: Ôn dương ích khí.

Bài thuốc: “Tứ nghịch thang” phối hợp với bài “Bổ khí vận tỳ thang” gồm: phụ tử chế 8g, cam thảo 80g, can khương 60g, hoàng kỳ 12g, nhân sâm 8g, bạch truật 12g, phục linh 12g, sinh khương 6g, trần bì 12g, sa nhân 12g, bán hạ 10g, đại táo 12g. Tùy sức khỏe bệnh nhân mà dùng liều lượng cho thích hợp. Ngày sắc một thang, chia 3 lần, uống sau khi ăn.

TTND.BS. Nguyễn Xuân Hướng

Triệu chứng ung thư hậu môn bạn không nên bỏ qua

Nữ giới có khả năng mắc bệnh cao hơn nam giới, nhưng trong vòng 10 năm qua, Hội nghiên cứu ung thư Anh cho biết số người mắc ung thư hậu môn đang tăng lên. Tỷ lệ mắc ung thư hậu môn đã tăng 130% kể từ cuối những năm 70.

Khoảng 9 trong số 10 trường hợp ung thư hậu môn có liên quan đến nhiễm HPV, một loại virus gây ra ung thư cổ tử cung, âm hộ, âm đạo, dương vật. Các yếu tố nguy cơ mắc bệnh điển hình bao gồm nhiều bạn tình, có quan hệ tình dục qua đường hậu môn, dương tính với HIV.

Các triệu chứng của ung thư hậu môn có thể tương tự như triệu chứng của các bệnh khác như trĩ hoặc nứt hậu môn

Một số triệu chứng của bệnh bao gồm:

Phân có máu

Đây là triệu chứng phổ biến nhất của ung thư hậu môn. 50% bệnh nhân có triệu chứng này.

Nổi cục nhỏ gần hậu môn

Các cục nhỏ xung quanh hậu môn cũng là dấu hiệu cảnh báo, đôi khi có thể bị nhầm lẫn với bệnh trĩ.

Đau

Đau ở vùng hậu môn ảnh hưởng đến khoảng 30% bệnh nhân mắc ung thư hậu môn. Các chuyên ra cho biết những triệu chứng khác bao gồm sưng, đỏ da liên tục hoặc đau nhức khu vực hậu môn.

Tình trạng đi vệ sinh

Khó khăn khi đại tiện và táo bón là những triệu chứng phổ biến của bệnh. Tăng chất nhầy cũng có thể là một dấu hiệu cảnh báo.

Theo Hội Nghiên cứu ung thư Anh, cứ 3 người mắc ung thư hậu môn thì 1 người có cảm giác bị nổi cục quanh hậu môn. Một số cảm thấy ngứa nghiêm trọng, trong khi một số khác bị ra dịch ở hậu môn.

Những yếu tố nguy cơ khác bao gồm tiền sử ung thư cổ tử cung, âm đạo hoặc âm hộ, tuổi tác, hệ miễn dịch yếu và những người đã cấy ghép cơ quan nội tạng.

BS. Tuyết Mai

(Theo Express)

Có nên thụ tinh ống nghiệm?

Cháu đi khám phụ khoa làm xét nghiệm và siêu âm đầu dò, bác sĩ kết luận bị buồng trứng đa nang. Xin hỏi đây có phải nguyên nhân gây khó có thai? Cháu có nên thụ tinh ống nghiệm?

Hoàng Tuyết Nhung(nhungtuyet@gmail.com)

Buồng trứng đa nang được chẩn đoán qua siêu âm (siêu âm đầu dò là chính xác nhất). Buồng trứng đa nang được phát hiện ở 16-22% phụ nữ khỏe mạnh trong độ tuổi sinh đẻ. Buồng trứng đa nang cũng gặp ở 75% phụ nữ vô sinh do không rụng trứng. Đây là loại bệnh nội tiết có liên quan đến vô sinh do không rụng trứng. Buồng trứng đa nang có các triệu chứng như rối loạn kinh nguyệt (ít kinh, vô kinh), béo phì, cường androngen (rậm lông, mụn trứng cá). Các nang noãn hiện diện trên buồng trứng là những nang ngừng phát triển, không có noãn vượt trội để tiến tới giai đoạn rụng trứng, do đó dẫn đến vô sinh. Ngoài ra, vô sinh còn có thể do nhiều nguyên nhân khác (kể cả nguyên nhân từ chồng). Cũng cần lưu ý, khi đi khám hiếm muộn cần khám cả hai vợ chồng. Nếu nam giới bị viêm teo tinh hoàn do biến chứng quai bị, hoặc giãn tĩnh mạch thừng tinh (tuy vẫn đủ 2 tinh hoàn) cũng là nguyên nhân gây vô sinh. Lời khuyên của tôi là hai bạn nên đi khám chuyên khoa hiếm muộn ở các bệnh viện phụ sản để được theo dõi, chẩn đoán và điều trị. Tùy theo nguyên nhân mà bác sĩ sẽ có cách xử trí khác nhau. Nếu vô kinh có thể bác sĩ sẽ chỉ định điều trị vòng kinh nhân tạo. Có trường hợp sau 3 tháng dùng thuốc, kinh nguyệt trở lại đều và có thai tự nhiên. Tuy nhiên, có trường hợp khó hơn thì phương pháp thụ tinh ống nghiệm sớm vẫn là tốt nhất.

BS. Kim oanh

Chăm sóc bệnh nhân thay van tim

Hiện nay, số người bệnh phải thay van tim cơ học ngày càng tăng, đa số do tổn thương sau thấp tim. Đây vẫn là bệnh phổ biến của các nước đang phát triển, vì vậy việc chăm sóc người bệnh sau khi thay van tim là vô cùng quan trọng, cần phải nắm rõ những nguyên tắc cơ bản để đạt kết quả điều trị tốt nhất.

Cần tuân thủ chặt chẽ mọi chỉ định của bác sĩ

Tất cả bệnh nhân thay van tim cơ học đều cần dùng thuốc chống đông suốt đời. Ở Việt Nam, loại thuốc kháng đông được sử dụng là sintrom, thuộc nhóm thuốc kháng vitamin K. Nếu không uống thuốc kháng đông có thể gây ra biến chứng nguy hiểm đến tính mạng. Nếu bệnh nhân không uống thuốc hoặc uống chưa đủ liều sẽ dễ hình thành cục máu đông tại van cơ học. Cục máu đông có thể vào hệ tuần hoàn có thể gây tắc mạch nhiều nơi trong cơ thể như tắc ở mạch máu não sẽ gây nhồi máu não. Nếu cục máu đông tắc ngay tại van cơ học khiến van không hoạt động, bệnh nhân có thể đột tử. Ngược lại, nếu uống thuốc quá liều sẽ gây xuất huyết trong cơ thể như xuất huyết não, dạ dày, cơ, thận, da...

Bệnh nhân sử dụng thuốc chống đông cần được xét nghiệm máu định kỳ để thử giá trị INR (International Normalized Ratio). Với bệnh nhân có van động mạch chủ cơ học, INR cần giữ ở mức 2 - 3, với van hai lá cơ học là 2,5 - 3,5.


	Hình ảnh van tim cơ học

Hình ảnh van tim cơ học

Khi nào cần tái khám?

Trước tiên, bệnh nhân cần ý thức được việc sử dụng thuốc chống đông sau phẫu thuật thay van cơ học là vấn đề rất quan trọng. Ngay sau mổ, bác sĩ sẽ kê đơn thuốc chống đông và theo dõi INR hàng ngày trong thời gian nằm viện để điều chỉnh liều phù hợp với từng bệnh nhân. Khi bệnh nhân đạt chỉ số INR ổn định sẽ được ra viện và có lịch hẹn tái khám. Bệnh nhân phải tái khám đúng theo lịch và uống thuốc chống đông đúng theo đơn của bác sĩ, uống đúng liều lượng, uống đều đặn, không được ngưng thuốc đột ngột vì bất cứ lý do gì nếu không có ý kiến của bác sĩ.

Nếu bệnh nhân thấy có những dấu hiệu như: chảy máu chân răng (tự nhiên hay sau khi đánh răng), chảy máu mũi, nổi vết bầm dưới da, đi ngoài phân đen sệt, nôn ra máu, tiểu đỏ, lượng máu hành kinh ra nhiều...(có thể do dùng thuốc quá liều) hoặc thấy tức ngực, khó thở... (có thể bị kẹt van) thì cần đến bệnh viện ngay để bác sĩ tim mạch kiểm tra và điều trị.

Bệnh nhân đang dùng thuốc chống đông không nên tự uống thuốc khác (kể cả các loại thuốc bổ, vitamin), khi cần dùng thuốc phải hỏi ý kiến của bác sĩ và xem kỹ hướng dẫn sử dụng.

Khi bệnh nhân phải vào bệnh viện (vì tai nạn, bệnh tật...), phải báo cho bác sĩ biết là đang dùng thuốc chống đông máu và đang mang van tim nhân tạo.

Nếu phụ nữ muốn có con phải báo ngay cho bác sĩ để có chỉ dẫn cụ thể, nhất là đến ngày sinh đẻ.

Chế độ ăn ảnh hưởng đến kết quả điều trị

Ngoài tuân thủ việc uống thuốc thường xuyên và đều đặn, chế độ ăn cũng rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả dùng thuốc chống đông.


	Người bệnh thay van tim cơ học cần lưu ý chế độ ăn ít thực phẩm chứa vitamin K.

Người bệnh thay van tim cơ học cần lưu ý chế độ ăn ít thực phẩm chứa vitamin K.

Các thực phẩm có thể ảnh hưởng đến thuốc chống đông

Nhiều loại thực phẩm chứa vitamin K gây cản trở tác dụng của thuốc này. Bệnh nhân nên hạn chế ăn các loại rau quả có lá màu xanh sẫm có nhiều vitamin K. Các loại thực phẩm có chứa vitamin K bao gồm: cải xoăn, trà xanh, măng tây, bơ, bông cải xanh, cải bắp, súp lơ, mù tạc, gan, dầu đậu tương, đậu nành, đậu (đậu Hà Lan, đậu xanh), củ cải, mùi tây, hành xanh, và rau diếp. Quan trọng hơn cả, bệnh nhân cần ăn lượng rau trong khẩu phần hàng ngày tương đối đều nhau, tránh thay đổi nhiều trong các bữa ăn.

BS. Ngô Tuấn Anh (Bệnh viện 108)

Một số điều nên tránh khi dùng thuốc chống đông

Tránh uống rượu.

Không tham gia bất kỳ hoạt động thể thao nào có thể dẫn đến va chạm mạnh.

Không thay đổi mạnh mẽ trong chế độ ăn uống.

Mang thai: Không nên sử dụng thuốc chống đông trong khi mang thai vì có nguy cơ gây dị dạng cho thai nhi.

Ngưng thuốc: Việc ngưng thuốc hay thay đổi liều thuốc phải tuyệt đối theo sự chỉ dẫn của bác sĩ chuyên khoa, tránh tự ý điều chỉnh hay ngưng thuốc đột ngột.

Các thủ thuật: Trước khi làm bất kỳ xét nghiệm hoặc thủ thuật nào (ví dụ: phẫu thuật, nhổ răng, chụp mạch) bệnh nhân cần được tư vấn của bác sĩ chuyên khoa tim mạch.

Cho con bú: Thuốc chống đông có thể đi vào sữa mẹ nên có thể ảnh hưởng đến em bé. Thảo luận với bác sĩ về việc bạn nên tiếp tục cho con bú hay không.

Cơn bừng mặt kèm theo rối loạn tiêu hóa: Coi chừng khối u carcinoid

Ngày nay, bộ máy tiêu hóa cũng được xem như là một cơ quan nội tiết bởi vì có nhiều tế bào thần kinh nội tiết nằm phân bố dọc theo ống tiêu hóa. Những tế bào này có thể bị ung thư hóa gây nên các loại u thần kinh - nội tiết; trong đó hay gặp nhất là u carcinoid. Tỷ lệ mắc các khối u này tuy không nhiều nhưng chẩn đoán còn nhiều khó khăn, tiên lượng dè dặt, biểu hiện lâm sàng chủ yếu là những cơn bừng mặt kèm theo rối loạn tiêu hóa.

Biểu hiện của bệnh

Bệnh lý điển hình là u carcinoid tiên phát ở đường tiêu hóa nhất là ở ruột thừa, đoạn cuối hồi tràng và trực tràng. Các vị trí khác của đường tiêu hóa có thể gặp là đại tràng, dạ dày và túi thừa Meckel. Hội chứng carcinoid thường gặp nhất trong bệnh cảnh u của đoạn ruột giữa là bệnh cảnh điển hình, còn u ở đoạn đầu và đoạn cuối thường không điển hình.

Phần lớn u carcinoid được phát hiện tình cờ qua phẫu thuật, do mổ tử thi hoặc đôi khi qua nội soi. Trong giai đoạn sớm u carcinoid thường chỉ có những biểu hiện triệu chứng mơ hồ, do đó bệnh thường bị bỏ sót. Các triệu chứng như phừng đỏ mặt, đi phân lỏng, đau bụng chỉ xuất hiện vào giai đoạn muộn khi u đã di căn vào gan, hạch mạc treo hoặc vào các cơ quan khác.

Hình ảnh khối u qua chẩn đoán CT và MRI scan.

Hình ảnh khối u qua chẩn đoán CT và MRI scan.

Triệu chứng chính thường gặp của u carcinoid là biểu hiện của hội chứng carcinoid bao gồm: phừng đỏ ở mặt, cổ, trước ngực: triệu chứng này thường khởi phát khi bị stress, sau uống rượu và hoặc là sau ăn hoặc khi dùng các thuốc giống epinephrin. Tuy nhiên, biểu hiện này khác nhau tùy theo vị trí khối u. Với u carcinoid từ phế quản triệu chứng lâm sàng thường rầm rộ, cơn phừng nóng đỏ mặt thường nặng và kéo dài kèm dấu hiệu phù mặt, bồn chồn lo lắng, run và kích thích, chảy nước mắt, đổ mồ hôi, chảy nước bọt, buồn nôn, nôn, sốt và tiêu chảy dữ dội. U carcinoid từ dạ dày chỉ có triệu chứng phừng đỏ mặt với các mảng hồng ban, có khi kết tụ thành từng đám.

Biểu hiện hay gặp thứ hai là tiêu chảy, đây là triệu chứng gây ra do tăng tiết, do kém hấp thu và tăng nhu động ruột. Tiêu chảy có thể đơn thuần hay kết hợp với biểu hiện phừng đỏ mặt.

Ngoài ra có thể gặp một số biểu hiện khác như chuột rút ở chân, đau bụng có thể kèm theo bán tắc ruột, xơ hóa van tim, loét dạ dày tá tràng, các biểu hiện của bệnh thiếu vitamin PP. Sự xuất hiện các triệu chứng lâm sàng có thể không đồng bộ theo thứ tự thời gian, triệu chứng phừng đỏ mặt có thể xuất hiện kèm hoặc không với triệu chứng tiêu chảy.

Bệnh thường được chẩn đoán muộn sau nhiều năm vì biểu hiện lâm sàng rất kín đáo. Bệnh chỉ được gợi ý chẩn đoán khi có kèm theo cơn phừng đỏ mặt, kèm tiêu chảy, kèm theo triệu chứng về hô hấp. Chẩn đoán dương tính cần dựa vào các xét nghiệm đặc hiệu với sự hiện diện của các marker của u carcinoid kèm với hình ảnh khối u qua chụp cắt lớp tỉ trọng.

Cũng có thể xạ hình bằng thụ thể somatostatin giúp định vị khối u carcinoid. Đây là một kỹ thuật mới, độ nhạy và độ chính xác cao, tuy nhiên xét nghiệm này đòi hỏi đội ngũ kỹ thuật viên có kinh nghiệm và khá đắt tiền. Với các u carcinoid có đường kính >2 cm, đặc biệt nằm ở đoạn ruột giữa thường có di căn. Các vị trí di căn thường gặp là: hạch mạc treo, gan, màng bụng, đôi khi di căn xa như ở phổi, xương, da, buồng trứng, não, trung thất và lách.

Điều trị như thế nào?

Chế độ điều trị cần thích hợp cho từng bệnh nhân dựa vào kích thước khối u, vị trí khối u và mức độ các triệu chứng trên lâm sàng.

Điều trị chủ yếu là phẫu thuật cắt khối u, làm tắc mạch đi vào khối u, xạ trị liệu khu trú trên khối u, hóa trị liệu chống ung thư và ức chế tăng tiết chủ yếu là dùng corticoid.

Bên cạnh đó, tùy theo các biểu hiện khác nhau mà dùng thêm các thuốc điều trị triệu chứng:

Nếu có biểu hiện tiêu chảy: dùng thuốc ức chế và làm giảm nhu động ruột.

Nếu có cơn nóng bừng nhẹ thì có thể không cần điều trị; nếu nặng có thể dùng phối hợp kháng histamin H1 và kháng thụ thể H2.

Hóa trị liệu chỉ được áp dụng cho những trường hợp các triệu chứng hoặc khối u không cải thiện khi điều trị bằng octreotid hoặc trong những trường hợp chức năng tim bị ảnh hưởng bởi u carcinoid. Các hóa chất thường dùng là streptozotocin, 5-fluouracil, cyclophosphamid, dicarbazin, adriamycin và doxorubicin; trong đó kết hợp giữa streptozocin và doxorubicin là cho kết quả cao nhất, làm giảm thể tích khối u và cải thiện được tiên lượng.

Hội chứng u carcinoid là một bệnh lý hiếm gặp, chẩn đoán thường muộn, tiên lượng dè dặt, khó có thể thiết lập một phác đồ xác định chẩn đoán và điều trị cho một khối u carcinoid ống tiêu hóa. Trong trường hợp di căn còn khu trú ở gan và có thể cắt bỏ được thì phẫu thuật để cắt bỏ khối u càng nhiều càng tốt. Khi di căn không cắt bỏ được, thì việc loại bỏ khối u tiên phát là cần thiết, nếu không có di căn gan thì điều trị tại chỗ bằng hóa trị liệu kết hợp với nút mạch dưới sự phối hợp với somatostatin. Trong trường hợp di căn không cắt bỏ được như di căn màng bụng, di căn nhiều hạch xa, di căn đến xương thì điều trị nội khoa bằng somatostatin trong thể nhẹ, thể nặng thì dùng hóa trị liệu phối hợp với interferon.

ThS. Nguyễn Mạnh

Lưu ý khi chăm sóc người mắc bệnh Alzheimer

Rối loạn giấc ngủ

Các rối loạn về giấc ngủ của người bệnh Alzheimer gây phiền toái cho cả người bệnh lẫn người chăm sóc. Để cải thiện tình trạng này: Cần thiết lập và duy trì thói quen, thời gian ăn, thức dậy và đi ngủ. Tránh các chất kích thích như rượu, chất caffein và nicotin. Đừng để người bệnh xem tivi ngay trước giờ đi ngủ. Khuyến khích người bệnh hoạt động thể chất (đi bộ, tập thể dục) để có giấc ngủ ngon hơn vào ban đêm. Hạn chế ngủ ban ngày. Nếu người bệnh cần ngủ trưa, nên duy trì một giấc ngủ ngắn. Tạo môi trường ngủ thoải mái từ nhiệt độ đến ánh sáng và sự an toàn. Quản lý việc dùng thuốc vào những thời điểm thích hợp để không ảnh hưởng tới giấc ngủ.

Nếu người bệnh thức dậy vào ban đêm, hãy giữ bình tĩnh, mặc dù bạn có thể mệt mỏi. Hãy nhẫn nại và nhẹ nhàng với người thân của mình, nhắc nhở họ về thời gian, giám sát người bệnh quay trở lại giấc ngủ.

Nếu các giải pháp thông thường không có tác dụng, có thể đề nghị bác sĩ cho thuốc ngủ. Nhưng việc dùng thuốc cũng có những tác dụng phụ nhất định và nên ngừng khi đã thiết lập được giấc ngủ.

Lưu ý khi chăm sóc người mắc bệnh AlzheimerHình minh họa não của người bình thường và thoái hóa não trên người bệnh Alzheimer.

Lang thang, đi lạc

Alzheimer gây ra sự mất phương hướng, có thể dẫn đến khả năng đi lạc, đi lang thang. Biểu hiện này có thể xảy ra ở bất kỳ giai đoạn nào của bệnh Alzheimer, khá phổ biến ở người mắc bệnh. Vì nguy cơ này có thể xảy ra bất cứ lúc nào với người bệnh, nên áp dụng các biện pháp sau:

Lưu ý khóa: Khóa cửa, cài chốt ngăn ngừa người bệnh rời nhà. Kiểm soát chỗ để chìa khóa, tốt nhất là tránh khỏi tầm mắt người bệnh.

Bảng ghi thông tin: Chuẩn bị sẵn những thông tin về họ tên người bệnh, địa chỉ nơi ở, số điện thoại người thân... để trong túi áo, đeo trên cổ, gắn trên vòng tay hoặc nơi nào đó thuận tiện, dễ tìm thấy, nhìn thấy... Có những thông tin này, người bệnh sẽ dễ dàng được đưa về gia đình hơn.

Giữ danh sách các số điện thoại khẩn cấp, một bức ảnh gần đây của người bệnh để dùng trong trường hợp cần phát thông tin tìm kiếm.

Sử dụng thiết bị GPS: Cân nhắc việc yêu cầu người thân mang theo thiết bị có gắn GPS hoặc thiết bị theo dõi khác có thể gửi thông báo điện tử về vị trí của họ. Điều này sẽ dễ dàng hơn cho việc xác định vị trí của người bệnh.

Đối phó với những thách thức sinh hoạt hàng ngày

Bệnh Alzheimer thường làm cho các hoạt động thường nhật hàng ngày trở thành một thử thách. Hãy giúp đỡ nhưng đảm bảo sự riêng tư hết mức có thể cho người bệnh. Trong quá trình giúp đỡ người bệnh cần kiên nhẫn giải thích và nhắc nhở từng bước trong các hoạt động đó. Ví dụ khi mặc quần áo, khi ăn...

Sử dụng các thiết bị, đồ dùng dễ dàng hơn cho người bệnh, ví dụ quần áo không nên phức tạp, tùy theo sở thích của người bệnh mà lựa chọn vài bộ đồ giống nhau để giảm bớt phải lựa chọn nhiều. Chọn giày lười thay cho giày buộc dây. Chọn đồ chui đầu, cạp chun thay cho cài cúc hay kéo khóa...

Người bệnh Alzheimer có thể mất cảm giác về đói hoặc khát. Do đó, người chăm sóc phải lập thời gian biểu cho hoạt động này và tuân thủ đúng giờ. Nên chọn đồ dễ ăn, đảm bảo đủ dinh dưỡng, tránh phân tâm trong khi ăn.

Mất kiểm soát đại, tiểu tiện: Khi bệnh Alzheimer tiến triển, thường xảy ra tình trạng không kiểm soát được đại, tiểu tiện. Để giúp đỡ người bệnh, cần làm cho việc đi vệ sinh được dễ dàng như trang phục thoải mái dễ cởi, phòng vệ sinh dễ tìm, dễ nhận biết. Chú ý các dấu hiệu thường gặp khi người bệnh muốn đi vệ sinh để trợ giúp kịp thời. Đừng chờ người bệnh hỏi, xem xét đưa người bệnh vào phòng vệ sinh một cách thường xuyên, dù họ có yêu cầu hay không. Nếu sử dụng quần tã, bỉm nên cân nhắc xem xét tới lòng tự trọng của người bệnh, không nên ép buộc thô bạo.

Không bao giờ để người bệnh tắm mà không có sự kiểm soát an toàn.

Khó khăn trong giao tiếp

Vì thoái hóa não tiến triển, bệnh Alzheimer dần dần làm giảm khả năng giao tiếp của người bệnh. Người bệnh khó khăn trong thể hiện ngôn ngữ, thậm chí mất ngôn ngữ, ngược lại, cũng gặp khó khăn khi nghe hiểu lời nói của người khác. Mặc dù có những thách thức, bạn có thể giao tiếp hiệu quả với những người bệnh Alzheimer bằng những nguyên tắc sau:

Kiên nhẫn: Lắng nghe và cố gắng hiểu. Đừng ngắt lời. Giữ giọng nói nhẹ nhàng. Cầm tay người bệnh trong khi nói. Thể hiện sự tôn trọng. Tránh những yếu tố làm “nhiễu” sự giao tiếp của hai bên.

Đơn giản: Dùng cách nói đơn giản, câu ngắn. Khi bệnh tiến triển, hãy đặt câu hỏi yêu cầu câu trả lời có hoặc không (gật đầu hoặc lắc đầu). Chia nhỏ các yêu cầu thành từng bước.

Thoải mái: Nếu người bệnh Alzheimer gặp khó khăn trong giao tiếp, hãy khuyến khích người đó tiếp tục giải thích những gì người đó đang nghĩ.

Sử dụng các tín hiệu trực quan thay cho ngôn ngữ: Thay vì yêu cầu người bệnh đi vệ sinh, có thể đưa họ vào nhà vệ sinh và chỉ vào đó.

Tránh phê bình, sửa chữa và tranh cãi: Thay vì vậy, hãy cố gắng tìm ra ý nghĩa của những gì người đó đang nói. Chớ kích động, không tranh cãi với người bệnh.

Giao tiếp với người mắc bệnh Alzheimer có thể là một thách thức, đặc biệt khi bệnh tiến triển. Hãy nhớ rằng, người chăm sóc cần thật sự kiên nhẫn và hiểu biết để giúp người bệnh cảm thấy an toàn và được an toàn.

BS. Nguyễn Thanh Phúc